jesus, christ, god-4779548.jpg

Tin

1.      Điều kiện

16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc; 17 vì trong Tin lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin. (Rô-ma 1:16-17)

16 Ai tin và chịu phép báp-têm, sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt. (Mác 16:16)

30 Đoạn, đưa hai người ra ngoài, mà hỏi rằng: Các chúa ơi, tôi phải làm chi cho được cứu rỗi?31 Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. (Công-vụ Các Sứ Đồ 16:30-31)

2.      Hai khía cạnh của đức tin.

Đức tin cứu rỗi bao gồm hai khía cạnh. Lưu ý rằng sự hiểu biết hay nhận biết phải đến trước đức tin.

a.      Tin rằng, là… đồng ý – chấp thuận (pisteuo hoti)

Tin (đồng ý và chấp thuận) bằng tâm trí rằng lời tuyên bố hay thông tin là thật. Khía cạnh này của đức tin trả lời câu hỏi vì sao tin và tin cái gì? Điều này nhắm vào sự nhận định hay nhận xét của tâm trí về sự thật. Tin rằng các sự kiện và lời hứa của tin lành là thật.

8 Phi-líp thưa rằng: Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi, thì đủ rồi.9 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-líp, ta ở cùng các ngươi đã lâu thay, mà ngươi chưa biết ta! Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi?10 Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, hay sao? Những lời ta nói với các ngươi, chẳng phải ta tự nói; ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài.11 Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta; bằng chẳng, hãy tin bởi công việc ta. (Giăng 14:8-11)

30 Bây giờ chúng tôi biết thầy thông biết mọi điều, không cần phải có ai hỏi thầy; bởi đó nên chúng tôi tin thầy ra từ Đức Chúa Trời. (Giăng 16:30)

6 Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài. (Hê-bơ-rơ 11:6)

24 Nên ta đã bảo rằng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình; vì nếu các ngươi chẳng tin ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi. (Giăng 8:24)

8 Nhưng nói làm sao? Đạo(s) ở gần ngươi, ở trong miệng và trong lòng ngươi. Ấy là đạo đức tin mà chúng ta giảng dạy.9 Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; (Rô-ma 10:8-9)

  • Chính khía cạnh này của đức tin được Kinh Thánh dùng với nghĩa là điều được tin, chấp nhận và đồng ý là thật, hay hệ thống tín lý, điều được dạy.
    • Xem Công vụ 6:7; Tít 1:13; Jude 1:3 (Philíp 1:27); Eph 4:13; 1 Tim 6:21.

b.      Tin vào… sự tin cậy

Một khía cạnh khác của đức tin là chúng ta tin cậy, tin tưởng, giao phó. Chúng ta đầu hàng ý muốn của mình cho điều mình tin vào. Khía cạnh này chỉ ra quyết định của ý chí để hành động dựa trên sự nhận xét về sự thật mình tin.

Việc này giống như sau khi nhận biết hết về Bác Sĩ phẩu thuật chúng ta chọn đầu hàng, trao quyền và giao phó tánh mạng vào tay vị bác sĩ đó.

1 Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. (Giăng 14:1)

21 là kẻ nhân Đức Chúa Jêsus tin đến Đức Chúa Trời, tức là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, và ban sự vinh hiển cho Ngài đến nỗi đức tin và sự trông cậy anh em được nương nhờ Đức Chúa Trời. (1 Phi-e-rơ 1:21)

9 Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng,10 mà bây giờ mới bày ra bởi sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ, Cứu Chúa chúng ta, Ngài đã hủy phá sự chết, dùng Tin lành phô bày sự sống và sự không hề chết ra cho rõ ràng.11 Ấy là vì Tin lành đó mà ta đã được lập làm người giảng đạo, sứ đồ và giáo sư,(d)12 ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn, vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó. (2 Ti-mô-thê 1:9-12)

Việc thiếu đi khía cạnh thứ nhất không mang đến sự cứu rỗi bởi vì chúng ta có đồng một đức tin của Satan (Gia-cơ 2:19).

c.       Đức tin và sự vâng lời

Một số cho rằng đức tin bao gồm của yếu tố vâng lời. Cho đến khi một người vâng lời thì mới có đức tin. Việc bao gồm yếu tố này giúp giải thích được cứu chỉ bởi một mình đức tin mà thôi nhưng vẫn kèm theo báp-têm. Vì báp-têm là một hành động vâng phục, mà nó là cốt lõi của đức tin.

Đức tin không bao gồm sự vâng lời nhưng sự vâng lời bao gồm đức tin. Vì nếu đức tin bao gồm yếu tố vâng lời thì cuối cùng sẽ dẫn đến việc vô hiệu hóa ân điển. Đúng là đức tin là một việc làm hay một hành động của sự vâng phục theo nghĩa là chúng ta được lịnh phải tin vào Đức Chúa Jêsus Christ (Giăng 6:28-29; Công vụ 16:31).

  • Đức tin là mạng lịnh của Đức Chúa Jêsus Christ. Giăng 6:28-29.
  • Đức tin là trái ngược với sự không vâng phục. Giăng 3:36.
  • Không tin cũng như không vâng lời. Heb 3:18-19

Điều này không có nghĩa là đức tin bao gồm sự vâng phục, tuy nhiên; nó chỉ ra rằng sự vâng phục bao gồm đức tin. Đây là điểm khác biệt cốt yếu.

Nếu đức tin bao gồm yếu tố vâng lời, thì không có cách nào giới hạn sự vâng lời này chỉ với vài hành động (như xưng nhận và chịu báp-têm). Điều này đòi hỏi một người phải sống trọn đời vâng phục mọi mạng lịnh có liên quan. Như vậy “chỉ tin thôi” trở thành sự cứu rỗi bởi toàn bộ việc lành của tín đồ Đấng Christ, rơi vào một nơi nguy hiểm thỏa hiệp sự ân điển.

Trong khi chúng ta không thể nói rằng đức tin bao gồm sự vâng lời, thì chúng ta phải nói rằng đức tin sinh ra ra trong sự vâng phục. Đức tin cứu được là đức tin mà vâng lời.

3.      Vì sao đức tin là một điều kiện của sự cứu rỗi?

Không hẳn là do Đức Chúa Trời chỉ định nó. Nhưng bởi bản chất của sự cứu rỗi nó là điều kiện cần thiết. Vì cớ nguồn gốc sự cứu rỗi thật sự nằm trong một công việc được làm trọn bởi người khác – Đức Chúa Jêsus Christ. Chúng ta có thể được cứu bởi việc chấp nhận và phụ thuộc vào những gì Ngài đã làm là đủ cho chúng ta. Hành động phụ thuộc này vào Ngài và công việc của Ngài (thay vì của chính chúng ta và việc làm của mình) chính là cốt lõi của đức tin.

Một lý do khác nữa là vì sự cứu rỗi đến với chúng ta không phải qua luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng qua lời hứa của Ngài (Rô-ma 4:13-21; Ga-la-ti 3:14-29). Đức Chúa Trời ban sự cứu rỗi thông qua lời hứa của Ngài; cách duy nhất đáp lại một lời hứa là tin nó.

4.      Đức tin là phương tiện duy nhất của sự cứu rỗi

8 Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. (Ê-phê-sô 2:8)

Chìa khóa để nhận biết điều này nằm trong giới từ thông qua hay xuyên qua (từ Hy-lạp “dia”).

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *